Green Card - Thẻ xanh
Minh Thùy
Ông Thảnh dẫn Phượng đi lòng vòng thương xá Phước Lộc Thọ ở Little Saigon. Tầng dưới gồm những gian bán hàng ăn, thực phẩm, băng nhạc, quần áo…trên lầu là khu bán vàng bạc, nữ trang, mỹ phẩm, sách báo. Qua hai vòng tham quan Phượng bắt đầu nản.
- Cô thiếu " tâm hồn shopping " -ông Thảnh nhận xét- bên này đến 90% đàn bà chỉ mê shopping, có người tuần nào không đi ngắm mấy cửa hàng là sinh bệnh, vì nhớ, còn hơn nhớ người yêu.
- Anh đừng có đụng chạm đến tâm hồn đàn bà nghe. Nhiều ngăn bí mật đến Thượng đế còn không hiểu nỗi, thì nhằm nhò gì anh.
Cuối cùng hai người cũng đến chỗ phải đến, gian hàng nữ trang, góc phía đông. Nhân vật "thẻ xanh số 1"- như chị Nga đặt tên- mới mở cửa, đang lui cui bày hàng vô tủ kính.
- Đứng xa dễ chiêm ngưỡng hơn. Hắn mặc áo xanh, thấy chưa, không đẹp trai bằng anh đâu nhưng mặn mà, có duyên thầm chết người được.
Ngay chỗ sáng ánh đèn, mà gương mặt người đàn ông vẫn tối, vẻ chịu đựng nhẫn nhục, không nét gì đặc sắc gây ấn tượng.
- Mặn mà chỗ nào, em hảo ngọt, thích ăn chè hay kem chứ không ưa mặn.
- Đừng có vội chê, anh Tư thợ bạc này cũng là cây văn nghệ, dù chẳng bao giờ rớ tới sách báo nào, chỉ mê thơ Bùi Giáng.
- Thật không ?
- Bộ anh nói giỡn sao, Phượng mà nghe hắn đọc thơ thì dám xách va-li theo không. Mấy bận nhậu xỉn với nhau, anh nghe hắn xổ thơ Bùi Giáng: " Thương em vì nỗi thật thà. Đêm nằm em cởi quần ra gối đầu. Bây giờ em để quần đâu. Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao..." Tuyệt không ?
- Nhảm thì có, mấy ông chỉ nhớ bao nhiêu đó. Nhưng ngó bộ anh ta hiền lành.
- Quá hiền là khác, nên bà vợ trước quậy quá xá. Hắn lo làm hàng cho khách, bà vợ đứng bán, theo chiêu bài "thấy là nó rình, sơ hở là nó rinh", khi nào hắn quên không theo dõi là bà chôm mấy cái nhẫn hay bông tai đem đánh tứ sắc, thua hết. Gặp thêm ba thằng con phá trời, ham chơi hơn ham học, hắn chán đời, tịnh khẩu như bình. Vợ hắn đứt bóng sớm là may cho hắn.
- Trời, vậy mà anh tính gán em vô đó, đến chừng ba đứa con trai hắn quậy thì em biết làm sao.
- Thì kêu cảnh sát bắt tụi nó. Hắn cũng kêu cảnh sát bắt nhốt thằng lớn mấy lần. Mới biết lái xe có hai năm mà nó phá năm, sáu cái xe. Toàn phóng xe bạt mạng trên xa lộ.
- Nghe thôi là đủ sợ. Mình chấm dứt cái màn ngắm người đẹp từ xa đi, có vẻ illegal quá.
- Thì vô gặp mặt, nói chuyện với anh Tư một lát, bộ sợ sao?
- Để hôm khác. Người ta mới mở cửa hàng, mình đến nói linh tinh, rủi không bán được gì cả ngày nay thì hắn đổ họa cho mình.
- O.k, về xưởng chỗ anh làm, ngồi chơi một lát, rồi anh chở về nhà.
Vào xe thấy Phượng lặng im, ông Thảnh mở máy nghe nhạc. Con đường Brookhurst chạy dài, ít bóng cây, không khí dường như nóng, khô khan, dù mới buổi sáng. Ông Thảnh liếc nhìn Phượng qua kính chiếu hậu, cô ngồi băng ghế sau. Cái xe không giống ai, chắc còn sống sót lại từ thời Washington đắc cử tổng thống, không mở được cửa trước, chỗ ngồi cạnh tài xế biến thành chỗ chứa đủ thứ đồ nghề, phụ tùng xe hơi. Khi nào muốn chạy, khi nào trở chứng ngừng giữa đường là tùy ngẫu hứng tự nó. Đôi khi đang chạy êm lại rung lên bần bật như người lên cơn suyễn. Chị Nga khiếp vía, phải xuống xe xem có cái bánh xe nào bị văng mất. Vậy mà ông Thảnh khoái nó, nhứt định không bỏ, dù dư tiền tậu xe mới.
- Biết tin đặc biệt chưa, trước khi Phượng sang đây, chị Nga đã cho anh Tư thợ bạc xem hình em, hắn o.k liền. Đang kêu giá 20.000 đô, hắn off 50% liền, đẹp không?
- Rất khả nghi, có lẽ phải nhờ KCS* nhúng tay vô, hàng hạ giá thường là hàng kém phẩm chất.
Ông Thảnh lắc đầu:
- Cô em tui mắc bệnh hoài nghi, phi thẻ xanh ra thì có cách nào ở lại xứ Mỹ này được, mà 10.000 đô cho cái giấy hôn thú thời buổi này là number one đó.
Phượng duỗi đôi chân dài, ngã người ra sau, thả mắt theo đám mây bay trên cao. Cô nghĩ tới món tiền đang cần để phát triển cái văn phòng du lịch của mình ở Frankfurt. Khi không lại đem tiền tậu ông chồng -một anh Tư thợ bạc mê thơ Bùi Giáng- đổi lấy tấm Green card-thẻ xanh, mà không biết tương lai sẽ ra sao trên xứ Cờ Hoa này.
- Còn cái ông professor Lê cung Cầu -thẻ xanh số 2- của em ra sao.
- Vậy ra cô tương tư cha giáo sư đó? Hắn đến nay vẫn mồ côi vợ, lỡ bước sang ngang một lần rồi, mà chưa nếm mùi đời bao giờ. Tội nghiệp. Đúng hôm đám cưới, hai bên đằng trai đằng gái tụ họp đầy đủ ở nhà hàng thì cô dâu bỗng dưng biến mất. Chú rể đau khổ đứng chờ hoài. Sau biết ra cô ta có người yêu mới, tay này từng là học trò của hắn hồi trước, bị hắn đánh rớt, thi lại mấy lần, qua đây gặp cơ hội bèn chơi lại thầy, phỗng tay trên vợ sắp cưới của thầy. Giáo sư sầu đời, ở giá luôn. Nghe nói cô vợ hụt từng đoạt giải hoa hậu ở mấy hãng quảng cáo nước gội đầu bên nhà. Dạo này theo gương các chính khách về vườn, giáo sư đang say sưa viết hồi ký "Đời tôi, nửa thế kỷ cô đơn".
- Liệu em thay thế được bóng hình người yêu cũ của giáo sư không?
- Em hả -ông Thảnh chậm tay lái, quay lại ngó Phượng- có thể dư sức qua cầu, nếu chịu khó bỏ bớt cái tính ngang bướng đi. Có điều hắn ở giá lâu quá đâm ra mắc chứng allergie, dị ứng với đàn bà, em lôi được hắn ra khỏi cái ghetto cô độc của hắn là anh tôn làm sư mẫu liền.
&
Ông Thảnh rẽ xe vô xưởng sửa chữa, phải lạng lách khó khăn qua cả dãy xe móp méo nằm hàng dài ngoài sân. Giá không có cái văn phòng hai tầng thì Phượng tưởng đây là nghĩa địa xe. Dân Mỹ khoái chạy xe lớn, trong khi bên Âu châu người ta chuộng xe nhỏ, để dễ tìm chỗ đậu. Ông Thảnh làm quản lý ở đây hơn 10 năm, được chủ tin cậy nên ông toàn quyền chỉ huy phân xưởng. Đám thợ đến sớm đứng ngồi lố nhố trước cửa văn phòng chờ ông Thảnh phân công. Mùi sơn, mùi xăng nhớt làm không khí nóng thêm.
- Em vô văn phòng ngồi chơi. Computer đó, muốn vô Internet hay check mail cũng được.
- Nhỡ giám đốc đến bất tử, có phiền hà anh không?
- Không sao, anh là sếp ở đây. Tay giám đốc còn trẻ, phất lên rất nhanh, có đến năm phân xưởng, ít khi xuất hiện. Hắn rất chịu chơi, đối xử rộng rãi với anh em nên ai cũng mến.
Phượng lóc cóc gõ Computer, trả lời mấy cái mail tuần qua chưa xem. Con bé Yên Chi viết : "Con nhớ canh chua cá bông lau, nhớ mẹ quá. Con đang học bù đầu, đâu có thì giờ nấu cơm, toàn ăn mì gói với spagetti trừ cơm. Khi nào mẹ qua đây, nhớ mang theo bánh bao cho con, con sẽ đưa mẹ đi chơi khắp London. Mẹ chấm được cái ông thẻ xanh nào chưa? "
Có hai mẹ con, như ở hai đầu đại dương. Sống trên nước Đức 15 năm, giờ con qua Anh học, mẹ thì nghe lời đường mật của chị Nga "qua xứ Mỹ làm lại cuộc đời". Đời người có bao lâu mà cứ nhấp nhổm làm lại hoài, thấy đuối quá. Mấy nhân vật thẻ xanh, qua chị Nga mô tả có vẻ hấp dẫn. Sang đây, thâm nhập thực tế, mới thấy đường đến thẻ xanh cũng truân chuyên trắc trở như ligne de coeur, rối rắm đủ thứ vấn đề. Phượng thở ra, chắc phải cầu cứu đám bạn làm quân sư.
- Hello, tôi vào văn phòng được không ?
Một ông thợ hiện lù lù ngay cửa, người dong dỏng cao, mặt mũi chân tay chưa dính dầu mỡ xe.
- Được thôi, Phượng trả lời, xin cứ tự nhiên.
- Tự nhiên như chủ hay khách đây.
Hắn ném phịch người xuống ghế, gác hai chân còn đóng trong giầy lên cái bàn thấp, thoải mái tự nhiên như ở nhà. Phượng thấy khó chịu :
- Nếu anh cần gặp ông Thảnh thì ông ấy đang ở ngoài sân kia.
- Tôi cần gặp ông Thảnh làm quái gì, cô làm gì ở đây ?
Phượng muốn nổi cáu, tay này cỡ nào mà nghênh ngang. Hắn rút gói thuốc ba số 5 trong túi áo.
- Sorry, ở đây có lửa không ?
- Không có lửa khói gì hết, ở đây cấm hút thuốc, bảng cấm trước mặt kìa, anh có đọc tiếng Việt được không hay mắt bị loạn thị ?
Hắn ngẩn người ngó Phượng, ra vẻ sợ sệt, bỏ hai chân xuống, cất ngay gói thuốc.
- Sorry, tôi có mắt như mù, mới đến đây lần đầu nên chưa biết gì, xin bà tha lỗi cho, bà là giám đốc ở đây ?
Phượng hài lòng, phải cứng rắn để xử thế tình huống này. Cô cao giọng hơn:
- Chứ còn ai vào đây nữa, anh không thấy tôi đang ngồi ở đâu à? Hay anh nghĩ tôi không đủ tư thế làm giám đốc ?
Hắn phá ra cười, cười nghiêng ngửa, sảng khoái như đang xem phim hài "Laurel and Hardy" (Mập và Ốm). Tiếng cười khiến ông Thảnh đang ở ngoài sân phải chạy vô văn phòng.
- Có chuyện gì vậy? Chú Sơn đến đây hồi nào? Tôi định điện thoại xin ý kiến về cái xe cần làm gấp, may quá chú ghé qua.
Ông Thảnh nháy mắt qua Phượng, nói nhỏ: "Sơn, giám đốc." Hắn, tên thợ ngông nghênh đang tiếp tục cười.
- Báo cáo với quản đốc, từ hôm nay xưởng này có giám đốc mới, bà giám đốc. Xin lỗi, bà giám đốc tên gì, để em thưa hỏi cho lễ phép.
Phượng ngớ người, cổ như mắc nghẹn, thấy khát nước quá. Ông Thảnh đỡ lời: "Đây là Phượng, em họ bà xã tôi, ở bên Đức sang chơi."
Ra vẻ không cần quan tâm, hắn đi lại bàn, lật xem mấy cuốn sổ báo cáo, gằn giọng:
- Sáng nay tôi có gọi đến đây, lúc 8 giờ 15, nhưng anh chưa đến.
- Xin lỗi, sáng nay tôi đưa Phượng ghé qua chợ nên đến hơi trễ...
Phượng rút lui, đi ra cửa: - Anh Thảnh ở lại làm, em đi bộ về nhà. Bye.
- Hê, biết đường đâu mà về, chờ anh chút đi. Phượng...
Cô xăm xăm đi ra khỏi sân, nhắm hướng ngược chiều đại lộ lúc nãy mà đi, rủa thầm tên giám đốc giả dạng thường dân. "Đồ cà chớn, tự nhiên xuất hiện lại còn vờ vịt xin phép vô văn phòng, làm mình lỡ bộ, quê xệ. Thôi, mackeno."
Phượng ra đường, mới đi hơn trăm mét, cái Cabrio màu xám bạc đuổi theo. Hắn tấp xe sát bên lề, gọi lớn:
- Phượng, phải chị Phượng làm ở Đài truyền hình ngày xưa? Sơn đây mà, chị nhớ không?
Làm sao nhớ nỗi, trong đời xuất hiện hằng tá ông Sơn: Sơn trắng, Sơn đen, Sơn gàn, Sơn mụn, Sơn điên.... đầy dẫy. Người Việt nhỏ con nhưng hay nuôi mộng cao như núi, đặt tên Sơn cho con, như muốn ấn vào con mình cái thiên mệnh đội đá vá trời gì đó mà mình không hy vọng đạt được.
- Tôi là Sơn, Thiên Sơn, học sinh giỏi của trường.... ngày xưa, có lần chị đã vác máy đến trường phỏng vấn Sơn, chị quên rồi sao?
&
Thiên Sơn, núi trời ! Phượng nhớ, một buổi chiều tan sở, cơn mưa nặng hạt vừa ngớt, đi dọc theo đường Cường Để, vòng theo bến tàu, ra bến Bạch Đằng. Sơn dắt xe đạp đi bên cạnh Phượng.
- Sao, có chuyện gì, cần chị giúp gì không ? Phượng hỏi.
- Đâu có gì. Hôm nay Sơn mới lãnh lương, muốn mời chị đi ăn vậy thôi.
Phượng phản đối tức khắc:
- Để tiền mua sách hay mua áo đi, bày đặt mời chị đi ăn làm chi.
- Chị giúp Sơn biết bao nhiêu, tìm chỗ ở, tìm việc làm, phải cho em mời chị một lần chứ. Cũng có vấn đề quan trọng, chỉ dám nói với chị.
Hai người ghé vào xe hủ tiếu bò viên ở một con hẻm. Sơn tiết lộ bí mật, sau khi mỗi người lùa xong hai tô hủ tiếu vô bụng.
- Long, bạn thân em, sắp vượt biên. Cậu nó đóng tàu, chỉ có ba gia đình đi, nó rủ Sơn cùng đi. Biết hoàn cảnh em, lại không có con trai, cậu nó coi em như con nên cho đi không.
Phượng lại phản đối: - Sơn biết kỳ thi vô đại học sắp tới rồi, chắc gì đi thoát, lại nguy hiểm nữa. Em đổi cả cuộc đời cho chuyện mơ hồ.
- Em không còn cơ hội nào khác. Cứ kể như mình đánh bài đi, nhứt chín nhì bù. Nếu trở về nhà, sợ có ngày Sơn đập lại ông dượng. Hết chịu đựng nổi, ổng vô cớ cứ chửi mắng đánh đập em, đánh luôn má em. Nhứt quyết phải đi. Sơn đã nói với ông cậu về chị rồi, có một chỗ dành cho chị.
- Trời, có điên không, tuần sau là đám cưới chị, khi không lại tính vượt biên.
Đến lượt Sơn ngạc nhiên:
- Sao đám cưới chị mà không cho biết trước. Ai vậy, có phải tay đi Cup đỏ hay đưa đón chị không? Sao chị quyết định vội vàng vậy?
Phượng lặng im. Quyết định đến bất ngờ, mới hai tuần nay, với cái người mà cô không ưa ngay lần đầu gặp nhau. Chính cô cũng không hiểu được mình. Sau hai lần từ chối, khi Hưng ngõ lời lần nữa, tự dưng cô lại đồng ý. "Mình sắp điên chăng? Hay chỉ muốn tìm sự thay đổi nào đó cho cuộc sống hiện tại quá sức nặng nề, tù hãm? Biết đâu lại chỉ là chui từ cái rọ này sang cái rọ khác thôi."
Phượng nghĩ thầm, không kể ra với Sơn. Hai người đi dọc theo đường Nguyễn Huệ, mưa bay lất phất. Trời mới sẫm tối, đèn đường vừa lên, đường phố đã thưa thớt người qua lại.
- Chị nghĩ sao mà lấy anh ta, Sơn thấy hắn có vẻ không thật hay ích kỷ sao đó.
- Đừng xét đoán người vội thế, Sơn gặp anh ta có mấy lần đâu.
- Đàn ông nhìn nhau là biết. Chỉ sợ về sau chị ân hận, lại khổ như cảnh má em bây giờ.
Phượng muốn giận Sơn lúc đó. Sau này mới thấy lời tiên đoán của Sơn không sai. Chỉ ba năm sau là ly dị, Hưng phủi tay trách nhiệm, tuyên bố: "Với tôi, con cái không có nghĩa lý gì hết!" Phượng âm thầm một mình nuôi con, một mình đưa con vượt biên, một mình nuôi dạy con vào Đại học.
- Thôi, tạm biệt chị, mai em với Long xuống Gò Công chờ tàu đi.
Sơn nói, giọng luyến tiếc, ngậm ngùi. Sơn đứng nán lại trước kiosk bán mỹ phẩm :
- Chị thích gì, để Sơn tặng chị món quà nhỏ.
- Chị không cần gì đâu, để dành tiền mà đi. Thôi được, nếu nhất định tặng chị, thì chỉ một cái hoa hồng thôi, màu hồng cam là chị thích nhất.
Sơn đi lại kiosk bán hoa, lát sau, mang ra cả một bó hoa lớn kết thật đẹp.
- Có bao nhiêu hoa hồng cam, Sơn lấy hết, tặng chị, như quà mừng đám cưới.
Phượng cúi nhìn bó hoa, tránh ánh mắt của Sơn. Đôi mắt đó ẩn dấu nỗi buồn, tha thiết quá.
Cô nói nhỏ: "Thôi, Sơn đi bình yên, chị cầu nguyện cho sóng êm, bão tan trên đường Sơn đi."
Sơn lên xe, chạy qua đường Lê thánh Tôn. Phượng dõi mắt trông theo đôi vai gầy, cái quần xanh bạc màu của Sơn xa dần trên đường.
Thiên Sơn biến mất luôn từ đó. Phượng cũng quên bẵng cậu học sinh giỏi cấp thành phố mà cô từng phỏng vấn, viết bài lúc mới vào nghề báo.
&
Sơn cho xe chạy chậm dọc theo Huntington Beach. Không ngờ ở Quận Cam có bãi biển khá đẹp. Hai người ngồi trên thành đá ngó ra khơi, mặt trời đỏ rực đang rơi dần xuống biển. Mái tóc Phượng dài, rối bay theo gió, phảng phất hương thơm Lavender dịu mát, không phải mùi bồ kết quen thuộc ngày xưa. Phượng kín đáo liếc nhìn Sơn. Gương mặt hơi vuông, chân mày ngang đậm nét, mấy nếp nhăn ở trán, đuôi mắt. Sơn có vẻ già dặn phong trần. Riêng đôi mắt vẫn như xưa, mơ hồ một nỗi buồn.
- Chị đang nghĩ gì vậy ?
Phượng cười: - Đang nhớ ông Phan Khôi, " 24 năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau. Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được.." Chị với Sơn chắc quen...lung lay, nên suýt nữa thì choảng nhau.
- Qua Mỹ rồi, nhiều lần Sơn viết thư về cơ quan hỏi thăm chị đều không thấy trả lời. Buồn.
- Số chị lao đao, chuyển cơ quan mấy lần, nhà cũng bị đuổi, nên đâu ai biết chị ở đâu. Gặp lại Sơn chị rất mừng, thấy Sơn ra đời thành công.
- Sơn gặp may thôi, gặp được cha mẹ nuôi nguời Mỹ tử tế, lo cho ăn học thì phải cố học để tự lập thân. Mấy năm trước Sơn có về Viêt Nam, đi khắp mấy tòa soạn Báo với Đài, hỏi thăm tìm chị, không ai biết, họ nói chị đã bỏ nghề, không viết báo nữa, đi đâu mất.
- Thì chị cũng biến như Sơn, qua được nước Đức. Hết lao đao, thì lận đận. Chắc số chị cầm tinh con rệp. Sơn khác trước nhiều quá, không sao nhận ra được, cao lớn, lại thêm râu ria.
Sơn cười lớn : - Già rồi, râu ria ra rậm rạp, thấy ghê lắm sao. Nếu chị không thích, từ mai, Sơn sẽ cạo bớt râu.
- Râu nhiều thì tốt thôi. Đàn ông không râu bất nghì, vợ thường chết trước, về già sống cô độc. Sách tướng nói vậy.
- Nhiều râu như Sơn đến giờ vẫn cô đơn, đâu đợi tới già. Chị hay thật, hơn 20 năm mà Sơn thấy chị không khác xưa bao nhiêu. Sơn sẽ đưa chị đi San Francisco chơi, để biết nhà Sơn luôn, nhà chính của Sơn ở đó. Chị sang đây chơi thôi hay có dự tính ở lại luôn?
- Chuyện đó để chị Nga với Trời tính, chị cũng chưa biết.
&
Mọi người đều ngồi vô bàn, nhân vật chính -thẻ xanh số 3- chưa xuất hiện. Anh Thảnh nói:
- Cứ dọn lên ăn đi. Tay này họ Trịnh, chính danh Trịnh văn Trọng. Luôn luôn đến trễ, từ 5 đến 10 phút. Luôn luôn với lý do: bận cuộc họp quan trọng gì đó, tôi rành tay này mà.
Chị Nga bồn chồn: - Mình mời khách, khách chưa đến, ăn trước thì kỳ quá.
Đúng 6 giờ 10 phút có tiếng chuông. Thẻ xanh số 3, như anh Thảnh mô tả: mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, phảng phất nước hoa hiệu Joop. Mobilphone dắt lưng quần, cravate chỉnh tề, tóc như giày đều đen bóng. Chỉ thiếu cái Laptop, đúng điệu kỹ sư phần mềm, computer. Hắn ăn nói lưu loát, tự tin, thỉnh thoảng đặt vài câu hỏi cho Phượng, vẻ ân cần. Chị Nga hài lòng ra mặt.
Cuối bữa ăn, hắn đề nghị đưa Phượng đi chơi một vòng thành phố cho biết "Little Saigon by night" . Anh Thảnh nháy mắt với Phượng, nói nhỏ:
- Hắn muốn khoe xe. Cái Opel của hắn ngồi êm như mơ. Không bị bệnh suyễn như xe anh.
- Phượng thấy thích đất Cali này không, so với bên Đức ra sao? Hắn hỏi.
- Mới qua, nên Phượng chưa có cảm giác rõ lắm.
- Bên đó, Phượng làm ăn ra sao. Có mua được nhà riêng chưa?
Tay này điều tra hơi kỹ, Phượng giữ chính sách im lặng. Hắn ngừng xe bên đường, đổi giọng trầm:
- Anh có đề nghị, tụi mình đều lớn tuổi, trải đời rồi, nên nói thẳng với nhau dễ cư xử hơn. Thú thật, anh rất có cảm tình với Phượng, sẽ ký giấy hôn thú để Phượng được ở lại đây. Phượng không phải trả đồng nào, nhưng với điều kiện: chúng ta "sống thử" với nhau hai năm đầu, xem có hợp nhau không, nên về tài chánh cần tách biệt rõ ràng. Anh: trả tiền nợ mua nhà chưa dứt, Phượng: chi phí các khoản chi tiêu lặt vặt điện nước, ăn uống trong nhà. Xe hơi thì của ai ngưòi nấy lo, tài khoản ở Bank của ai người nấy giữ, riêng biệt. Khi nào mình thấy hợp nhau thì cộng đồng tài sản cũng đâu có muộn, phải không....
Hắn say sưa nói, đề nghị này, đề nghị khác. Dường như sắp sẵn trong óc từ lâu. Chẳng cần quan tâm Phượng có nghe hay không. Người vợ trước của hắn sau một năm "sống thử" đã tự ý bỏ hắn, bỏ tất cả ra đi, như anh Thảnh nói.
Phượng muốn bước ra khỏi xe, lang thang dạo phố. Đêm không trăng, nhưng đầy sao. Nhà ai có cây hoa ngọc lan, hương bay thoang thoảng. Văng vẳng đâu đây dạo khúc Ánh Trăng của Beethoven. Đêm dịu dàng thế này, phải nghe những đề nghị trần trụi tính toán chi li của hắn, thật hoài phí. Đưa Phượng về tới nhà, hắn còn với theo lời cuối :
- Riêng Yên Chi, con gái em, đã lớn rồi, anh đề nghị em thuê phòng riêng cho nó, hay gửi nó đến nhà chị Nga. Thú thật, anh không thích con cái.
Phượng đóng sầm cửa xe, chào: - Thôi, goodbye forever, anh ráng đẻ thêm đề nghị mới. Còn tôi, thú thật, chỉ có một đề nghị, anh đừng bao giờ gặp tôi hay đến nhà chị Nga nữa.
&
Chị Nga, anh Thảnh còn xem ti vi ở phòng khách như chờ Phượng về.
- Sao, vở kịch hạ màn thế nào, có happy end không ? Chị Nga hỏi dò.
Phượng không trả lời ngay câu hỏi :
- Sáng mai, em bay qua New York gặp đám bạn cũ từ hồi học Gia Long, ở chơi một tuần rồi bay về Đức luôn.
Chị Nga thở dài: - Uổng công tui xúc tép nuôi cò...Cò ăn cho béo cò bay về nhà. Rõ chán. Chị thích em ở đây, mình đi lại thăm nhau gần hơn.
Anh Thảnh nói: - Duyên số do Trời định. Em có kiếm ra cả chục nhân vật thẻ xanh cũng không qua nỗi Trời.
Có tiếng chuông ngoài cửa, người đưa hoa xuất hiện, mang đến bó hoa lớn, 30 cánh hồng, đều một màu hồng cam điểm những cánh hoa Mueguet trắng nhỏ, thật đẹp.
- Ai điên lại gửi tặng hoa vào giờ này ? Chị Nga ngạc nhiên.
Phượng lấy cái thư nhỏ đề tên Tố Phượng kết trên cánh hoa.
" Phượng,
21 năm qua, Sơn không quên buổi chiều mưa chia tay nhau ở Saigon. Phượng nói, chỉ thích hoa hồng màu hồng cam. 21 năm nay, Sơn vẫn sống một mình. Vẫn đi tìm...vẫn chờ...
Sơn kém Phượng có mấy tuổi, điều đó không thành vấn đề. Nếu Phượng không chê Sơn, thì...."
Phượng ngưng đọc, ngước lên nhìn hai người. Chị Nga đứng im, tròn xoe mắt, không hiểu. Anh Thảnh vẫn ngồi ở sofa ngó Phượng, mặt rạng rỡ cười tươi.
Minh Thùy
*Ghi chú: KCS: đội Kiểm tra chất lượng sản phẩm, làm việc ở các hãng may, hãng dệt.
***************************************************************
Ngọc “Karaoke”
Người khách đội khăn che kín đầu với mặt như phụ nữ xứ 1001 đêm, đẩy cửa đi vào lúc 17 giờ 50.
Phương thở ra, cái bánh sinh nhật cho Ý Nhi đang chờ ở tiệm. Đám bạn nó chắc đang xúm xít ở nhà chờ bánh. Cô nói:
- Xin lỗi, đã đến giờ chúng tôi đóng cửa văn phòng. Mời bà ngày mai trở lại.
Người khách vẫn lầm lũi tiến đến, hai tay thủ trong túi áo. Phương chột dạ, lùi lại. Dám có khẩu súng, con dao hay chất nổ...dấu trong túi. Thế kỷ bây giờ sao sản sinh ra nhiều tên amok quá, tưng tửng giết người hàng loạt dù không lý do rõ rệt. Bà khách thả người xuống ghế, kéo khăn che mặt.
- Chị không nhìn ra em sao, chị Phương!
Bật khóc. Tiếng khóc gợi nhớ một khuôn mặt cũ, tươi sáng, đã biến mất. Còn gương mặt này thì xa lạ đến dửng dưng. Khuôn mặt nám đen, mấy dấu sẹo như vết chém kéo đôi môi méo xệch. Chỉ màu mắt nâu không thay đổi. Phương ngập ngừng:
- Ngọc “Karaoke” phải không?
Tiếng khóc lớn hơn. Hồi xưa cũng giọng khóc, tiếng hát đó được nhiều người ái mộ. Người ta nhớ đến một ca sĩ, một diễn viên kịch không chuyên, nhưng tài nghệ, nhiệt tình “hát chùa” trong những buổi họp mặt cộng đồng.
- 9 năm, phải không chị? Em thay đổi nhiều quá, đâu dám trách chị quên em.
- Tại Ngọc đội khăn nên khó nhận ra. Em mới về phải không?
- Em đến phi trường Frankfurt từ sáng, không ai đón, không biết về đâu, lang thang đến thành phố này, chợt nhớ chị, ghé qua nhờ chị giúp em một việc.
- Được thôi, cần gì chị giúp, nhưng khoan đã, để chị pha trà, đem bánh cho em, ăn chút cho ấm rồi mình nói chuyện.
- Cám ơn chị.
Giọng Ngọc đã khô, không còn nước mắt. Không biết lúc này là Ngọc thật hay Ngọc giả !? Nó đóng kịch trên sân khấu mà thiên hạ khóc, giận, cười, ghét nó như trong đời thật. Với những trích đoạn từ kịch bản Trà Hoa Nữ, Bông Hồng Cài Áo...Ngọc vào vai chánh làm người xem rớt nước mắt. Bỗng dưng mọi người choáng váng, Ngọc rơi vào vòng tù tội, bị kết án 10 năm tận xứ Úc xa xôi.
Biết Ngọc từ lúc nó 8 tuổi mà về sau Phương còn không hiểu nó, huống chi người khác.
Ngọc ăn bánh ngon lành, loáng cái hết nửa hộp. Phương bùi ngùi: “Nó đói, cả ngày đi ngoài trời lạnh, chắc không có tiền, hồi xưa tiền bạc rủng rỉnh, ăn xài như nước, bây giờ như thân tàn...”
Ngọc ngày xưa hay cười, mắt lá răm sắc sảo, nụ cười tươi hai lúm đồng tiền. Mới 17 tuổi cả nhà đốc thúc Ngọc lên xe hoa với anh bác sĩ quân y lớn hơn Ngọc 14 tuổi để giải thoát cảnh nghèo, bớt gánh nặng gia đình. Ngọc vui vẻ phủi tay mối tình với cậu bé hàng xóm sáng sáng chở Ngọc đến trường bằng xe đạp, thăng hoa cuộc đời.
Chưa được lâu thì cơn sóng đổi đời ập tới, chàng đi cải tạo mấy năm, khi về được giữ lại làm việc ở bệnh viện, nhưng chỉ muốn tìm đường vượt biên. Hai vợ chồng với đứa con gái nhỏ mới hơn một tuổi đi 5, 6 lần không lọt. Thầy bói gieo quẻ: “Tuổi hai người kỵ nhau, cứ kè nhau đi hoài thì...không ở tù cũng làm mồi cá biển” đành chia đôi, chàng đi trước, sẽ rước nàng với con đi sau, khi đến bờ bến mới. Tàu ra khơi gặp mùa biển động, trôi dạt hơn 2 tuần trên biển, chiếc ghe gần vỡ nát, môi người nào cũng nứt nẻ vì khô nước. Cái chết ngó thấy trước mắt, thì tàu ngoại quốc phát hiện đến cứu, đó chỉ là tàu đánh cá nhỏ, nên chỉ cứu được phụ nữ, trẻ em, đàn ông phải ráng sức bơi theo tàu vô bờ.
Hơn 50 người trên chiếc ghe tử thần đó được cứu sống, nhập trại tị nạn, chỉ trừ chàng bác sĩ của Ngọc. Anh chết ngay trên biển, vì kiệt sức không bơi nổi đến bờ.
Năm đó Ngọc mới 24 tuổi, cô gửi con cho mẹ, lao vào chạy hàng thuốc tây chợ trời. Với nhan sắc của Ngọc, chuyện chạy hàng không mấy khó khăn, cô hái ra tiền dễ dàng, gom góp cho chuyến đi của hai mẹ con tìm cuộc đời mới.
- Hình như em được ra sớm phải không? Chị nghe nói...
- Chị nghe nói hay đọc tin trên báo?
Phương bối rối, cô từng xem Ngọc như đứa em gái vì Phương là bạn với Hà, chị của Ngọc.
- Họ kêu án em 10 năm, nhưng qua thời gian trong tù, thấy em không quậy phá gì, mà mình dám quậy gì nữa chị, cái thân đã đến đường cùng, nên họ giảm án cho em, mới được ra sớm.
Cô thở dài, lắc đầu:
- Sớm muộn gì nữa, cuộc đời kể như tàn mạt rồi.
- Đừng nói vậy, còn người còn của, phải nhớ hai đứa con em nữa chứ.
Ngọc ngó Phương, dân dấn nước mắt:
- Không vì con chắc em treo cổ tự tử rồi. Chị xem đây, cái sẹo ở cổ tay là lần em cắt đứt mạch máu, nhưng bị cứu sống. Từ đó họ không nhốt tù riêng em.
Cái hộp bánh hết nhẵn. Phương pha thêm nước trà, cho gừng với đường vô trà.
- Để chị qua bên kia đường mua thêm bánh nóng cho em.
- Thôi, cám ơn chị, nhờ chị nhắn Nguyên, con gái em đến gặp em. Chị biết lúc này hai đứa con em ra sao không?
- Vậy ra 9 năm qua em không liên lạc với con sao? Sao kỳ vậy? Nhà tù bên Úc cấm sao?
Ngọc khóc:
- Chị xem, Giang tàn nhẫn không? Không cho hai đứa nhỏ liên lạc với em, em viết thư về không thấy trả lời, gọi telefon thì bị cắt. 9 năm, em bị bỏ quên như người chết rồi, không hề có ai thăm hỏi đến em.
- Chị không ngờ có chuyện đó, lâu lắm chị không gặp Giang với thằng bé, chỉ gặp Nguyên lúc nó còn học trường dạy nghề ở đây, hình như nó cố ý lánh mặt nên chị không hỏi thăm gì về em được.
Ngọc cúi xuống, hai bàn tay bám chặt cạnh bàn, da tay khô cằn, nổi gân:
- Chắc nó cảm thấy nhục vì mẹ nó, Giang chắc nói xấu em nhiều. Đâu ai biết chính vì hắn mà đời em thê thảm thế này.
- Có người biết chuyện nói chính Giang xúi giục em, chị cũng hiểu em...Thôi tạm thời hôm nay về nhà chị, chuyện gặp Nguyên tính sau. Chị phải đi lấy bánh, hôm nay sinh nhật Nhi, 16 tuổi.
Ngọc e ngại:
- Sinh nhật cháu mà em đến tay không, chẳng có quà cho nó, kỳ quá.
- Thì em đến chơi với chị, xem Nhi lúc này lớn thế nào rồi.
&
Khi nhà hàng “Blue Dragon” mở thêm tiết mục karaoke vào đêm chủ nhật thì tên Khánh Ngọc biến thành “Ngọc Karaoke”. Đầu thập niên 90, chưa nhà hàng nào ở Đức dám mở thêm tiết mục Karaoke, việc trang bị dàn máy quá tốn kém, sợ cảnh ẩu đả xảy ra, dễ bị phạt nặng hay đóng cửa. Không ai dám liều mình như Trường Giang, nhạc sĩ. Cũng có thể hắn không dám liều nếu không gặp Ngọc.
Hai người “bắt đúng tần số”, lăn vào nhau sau lần gặp gỡ hát karaoke ở nhà người bạn. Hắn ngạc nhiên khi nghe cô ca sĩ không tên cất tiếng hát, giọng hát ấm và khỏe, mang âm hưởng của danh ca Lệ Thu. “Con chim sơn ca này có thể đào ra mỏ vàng đây!” Hắn quyết tâm đào tạo người yêu thành ngôi sao. Ngọc cũng quyết liệt chia tay với Thắng đen, tay chồng hờ từ trại tị nạn, cô dắt bé Nguyên đến sống với Giang - bắt đầu thời kỳ huy hoàng mà cũng tàn khốc nhất đời cô.
Nhà hàng của hai vợ chồng Ngọc-Giang với sân khấu, dàn nhạc âm thanh nổi trở thành tụ điểm của giới Việt kiều. Nét tươi trẻ và giọng hát của Ngọc thu hút khách đến hát karaoke, vui chơi ngày càng đông, Giang đánh hơi rất nhạy nhu cầu của đồng hương, ra sáng kiến:
- Dân mình đa số đi làm nhà hàng chui, 14 tiếng mỗi ngày vất vả. Cuối tuần chả biết giải trí ở đâu ngoài Casino, chơi poker hay roulet, nộp tiền cho sở thuế Đức. Sao không biến họ nộp tiền cho mình?
Hắn mở luôn sòng bài ngay trên lầu, đóng kín cửa, đèn thắp sáng đêm cho con bạc sát phạt nhau, được phục vụ ăn uống miễn phí, văn nghệ tại chỗ. Khách quen đánh bạc đi vào nhà hàng như thực khách, có lối đi riêng lên thẳng sòng bài. Giang thầu luôn dịch vụ cho vay, chuyển tiền, nhà hàng trở thành bình phong. Hai vợ chồng ăn nên làm ra, thay xe liên tục. Giang chơi chiếc Audi đời mới, Ngọc tuyên bố: “Không lái xe nào hết, trừ Mercedes.”
Ngọc bắt đầu sợ hãi khi thấy nhà hàng Blue Dragon nổi danh đình đám:
- Hay mình mở sòng bài chỉ vào cuối tuần thôi, có vẻ cảnh sát bắt đầu chú ý rồi. Nếu bị điều tra mình nói là chỉ họp bạn ca hát, chơi bài vui với nhau thôi.
Giang nhạc sĩ mưu mô hơn:
- Không việc gì phải sợ, để anh tăng tiền lót tay tụi sở Thuế, không ai tới đây điều tra đâu. Có chăng là sợ nuôi ong tay áo. Em phải đối xử ngọt với đám nhân viên, bớt mắng mỏ tụi nó đi.
- Đừng đổ tội cho người khác, chính anh mới phải thay đổi, phải tăng lương cho đám đàn em, em nghe tụi nó kêu ca bị anh bóc lột sức lao động, có đứa gọi lén anh là “Trường Gian ác” !
- Vậy hả, toàn thứ “ăn cháo đá bát”, tụi nó làm chui, ở chui nhà mình, không phải khai báo mà còn kêu rên, thôi cũng phải tăng lương chút ít, bịt miệng tụi nó. Mà em cũng nên tham gia văn nghệ quần chúng để lấy cảm tình mọi người.
Tài nghệ của Ngọc được sử dụng, máu nghệ sĩ trong người, cô đi hát, diễn kịch khắp nơi được tán thưởng nhiệt tình. Hà, chị của Ngọc, vừa lo lắng vừa tiếc cho tài năng em mình không được ứng dụng đúng chỗ, khuyên can:
- Em với Giang giàu quá, mọi người bàn tán nhiều đấy, ngừng lại đi, tu tỉnh làm ăn đàng hoàng lại.
Phương cũng triết lý:
- Easy come easy go, cái gì dễ đến dễ đi. Ngọc xem, mấy tay làm giàu bất chính rồi cũng trắng tay.
Ngọc chống đối:
- Người ta xì xầm gì tụi em, họ ganh ghét đó thôi, trâu cột thì ghét trâu ăn, sợ gì, chuyện nhỏ!
Chuyện nhỏ trở thành chuyện lớn khi án mạng xảy ra. Hai con bạc thua cháy túi, xô xát đánh nhau, một kẻ tử thương. Lập tức nhà hàng bị đóng cửa, phạt nặng, chủ quán kiêm nhạc sĩ Trường Giang, bị bắt giam để điều tra những hoạt động bất chính. Thời hoàng kim của Ngọc tàn theo.
Cô bắt đầu bán dần mọi của cải, xe cộ tậu được bằng đồng tiền đen, đến cả nữ trang, áo choàng lông đắt tiền cũng tuần tự theo nhau ra đi. Rồi chuyển sang vay mượn nợ khắp nơi. Ngọc Karaoke đổi thành “Ngọc giả” khi Ngọc tự biên tự diễn vở kịch mới: Cô đang về nước đầu tư làm ăn, cần người đóng góp vốn cho công ty, được chia lời cao 25%. Tài đóng kịch giúp Ngọc quyến rũ được một số đồng hương ham lợi, thu hút số vốn lớn hơn 100.000 Euro. Mỉa mai thay, chính cô rơi vào vòng cờ bạc khi có trong tay số tiền lớn.
Dần dần những nạn nhân khám phá ra đó chỉ là công ty ma, khi không được chia phần lời như qui định, đành nuốt nước mắt không dám thưa kiện vì không có bằng chứng, mọi người lánh xa Ngọc như tránh hủi. Đến đường cùng, cô gửi hai con cho chị Hà, quyết chí đi Berlin làm ăn:
- Ở Berlin đông người châu Á, nhiều hàng quán VN có Karaoke, em có thể hát được, cũng dò xem tình hình, thấy được sẽ mở nhà hàng.
Hà phản đối gay gắt:
- Không đi đâu hết, ở đây chăm sóc con, đi làm cu-li cũng được, miễn là việc lương thiện. Mày mở nhà hàng lại quay ra cờ bạc, đổ nợ nữa cho xem.
- Thế ở đây để đi ăn mày sao, em nợ ngập đầu, Giang bị tù tội, em đâu nhận được trợ cấp xã hội, kiếm việc đâu ra, chỉ còn nghề quét dọn, mà em không quen làm việc nặng.
- Thế mày tưởng mày là cái gì, ông hoàng bà chúa chắc? Quét dọn thì có gì là xấu, chỉ ăn cướp, lường gạt người ta mới xấu! Mày mà đi Berlin, tao từ luôn, đừng có nhìn chị em gì nữa.
Phương hiểu nỗi lo sợ của Hà, Berlin tấp nập, hào nhoáng, đầy cạm bẫy. Công việc không thiếu cho người nước ngoài nhưng phần lớn làm chui trong các xưởng may, nhà hàng, tiệm giặt với đồng lương thấp, đa số là dân nhập cư lậu, đi đường mắt cứ láu liên tìm cảnh sát!
Như con ngựa bất kham quay về đường cũ, Ngọc cùng với Giang vừa mới ra tù bay đi Berlin “gây dựng công danh sự nghiệp”. Hai người lạnh lùng bỏ lại 2 con, Nguyên với Nam cho chị Hà chăm sóc, chị vừa giận vừa buồn đứa em bướng bỉnh, tuyên bố: “Kể như nó chết rồi!”
&
Văn phòng du lịch có 5 nhân viên, Phương là người châu Á duy nhất. Ông bà khách da vàng nào cũng đến bàn Phương, dù họ nói giỏi tiếng Đức. Có lẽ họ tìm thấy sự cảm thông ở màu da, màu mắt. Hai người khách nhận xong vé máy bay, nấn ná ngồi chơi đến cuối giờ bắt chuyện với Phương.
- Hình như cô có bà con gì với cô Ngọc?
Phương ngẩn người, lục trí nhớ:
- Chị em, bà con tôi đâu có ai là Ngọc.
- Ngọc Karaoke đó! Hồi trước có lần tôi gặp cô đi với Ngọc.
Gần 3 năm biệt tung tích Ngọc-Giang, Phương quên bẵng. Bà khách thận trọng ghé tai Phương thì thầm:
- Có tin Ngọc bị bắt rồi phải không? Bắt ở phi trường bên Úc.
Tin này đúng là loại Top-hit, Phương mới nghe lần đầu, choáng váng. Bà khách tự hào thấy mình trở nên quan-trọng-đại:
- Cô quen thân với Ngọc mà chả biết gì, thiên hạ đang đồn ầm lên, nó đi “hàng trắng” từ Kampuchia qua Úc, dấu heroin trong mấy gói băng vệ sinh, rất có kỹ thuật, qua mặt được hải quan nhưng bị chó săn đánh hơi phát hiện, bị bắt ngay khi tới phi trường.
Phương chết lặng hồi lâu, chờ người khách ra về, điện thoại đến Hà báo tin. Hà khóc:
- Tao nhục nhã quá, không dám cho mày biết. Tin đó có thật, tuần trước từ bên Úc, Ngọc nhờ người gọi điện cho tao cầu cứu, có Thánh hiện ra cũng không cứu được.
- Sao nó lại dính đến chuyện tày trời như vậy.
- Cũng vì đồng tiền thôi. Tay Giang có đi một chuyến hàng trắng qua Úc, trót lọt, kiếm được số tiền lớn. Tiền làm mờ mắt, nó muốn đi tiếp, nhưng sợ hải quan biết mặt nên lần sau nó đẩy Ngọc đi. Ngọc sợ, nhưng bị hắn đánh đập quá, nó theo lệnh phải làm thì bị bắt.
- Thế nó có khai ra tổ chức với thằng Giang không?
- Nó sợ khai ra Giang thì cả hai bị tù, không ai lo cho con. Nhưng vì thực tâm khai ra bọn trùm buôn hàng nên nó được giảm án 10 năm, chứ không thì án còn cao hơn.
Kỳ lạ chưa, trước kia con còn nhỏ dại, cả hai nhẫn tâm bỏ con đi Berlin, giờ lại động lòng thương con.
Hà dấu kín nỗi buồn, ít dám đến đám đông, sợ người ta nhắc đến đứa em gái “kể như chết rồi!”
Giang vẫn tự xưng là nhạc sĩ, trơ mặt tham gia hội diễn văn nghệ của cộng đồng người Việt, thỉnh thoảng nhạc sĩ nửa mùa lại bay về nước góp vui văn nghệ. Hắn tuyên bố vì tương lai các con không muốn ai nhắc nhớ tên Ngọc Karaoke, cắt đứt liên lạc giữa Ngọc với hai con.
Hắn chỉ lo giữ cái sĩ diện của hắn. Gia đình tan tác từ khi Ngọc vô tù. Nguyên, đứa con gái lớn, sau khi học nghề, tự tìm việc làm, đến thành phố khác sinh sống một mình. Đứa con trai nhỏ, con ruột hắn, thường xuyên bị cha đánh đập, sinh chứng tâm thần, gặp người lạ nào đến nhà là sợ hãi chui xuống gầm bàn hay cầu thang để trốn. Hàng xóm Đức biết chuyện báo cảnh sát, hắn bị mất quyền nuôi con, Trung tâm chăm sóc thanh thiếu niên của Đức nhận nuôi dưỡng, giáo dục đứa bé.
Giang-nhạc sĩ trút bỏ gánh nặng quá khứ, làm cuộc đổi đời với người vợ mới đón từ Việt Nam sang, cùng với món tiền 20.000 dollar, quà hồi môn của gia đình vợ mới tặng cho hắn.
Minh Thùy
***************************
LILIA NGUYỄN Ở THÀNH ROM
Lilia ra tận đầu đường đón tôi. Người đàn bà búi tóc, nhỏ nhắn, đứng dưới bóng râm cây
ô-liu, sau khu chợ trái cây ở công trường Fiori, thành Rome.
Chị ôm vai tôi, hôn nhẹ hai bên má, ánh mắt long lanh niềm vui, như đón người em gái bao lâu mới gặp lại.
- Chị cứ lo em bị lạc ở cái mê cung phố cổ này.
- Chị xem thường em đấy, dẫu gì em cũng thành dân Roma hai tuần rồi.
Nói xong, cười thầm mình hơi “chảnh”! Ba hôm đầu có Lisa, cô bạn Ý, dẫn đường, mọi sự êm xuôi. Ngày thứ tư, tự tin có bản đồ trong tay, tôi một mình đi thăm đền Pantheon thì lạc xây xẩm cả buổi chiều. Thành Rome huy hoàng giữa những đền đài tàn tích, nhà thờ uy nghi cổ kính, những con đường nhỏ hẹp, quanh co như rắn lượn, có đường bề ngang chưa tới 2 mét, lọt thỏm giữa hai dãy nhà cổ xưa, vẻ kín đáo bí mật, như những con hẻm sâu hun hút ở Saigon thời trước. Lisa kể, các Vua La Mã thời xưa, muốn kiến trúc đường phố như Labyrinth, kẻ thù đến xâm chiếm thành Rome, khó tìm đường rút lui.
- Đến Rome em thích nơi nào nhất? Lilia hỏi.
- Có lẽ em thích hồ Fonta de Trevi, nhất là về đêm, ánh đèn xanh chiếu sáng trên mặt nước lấp lánh, các pho tượng thần vĩ đại thấy huyền bí hơn ban ngày.
- Thế em có ném đồng tiền xuống hồ nước để cầu phước không?
- Cái đó thì chưa, nhưng thấy nhiều người, cả bọn trẻ con thi nhau ném tiền xuống nước cầu may. Sao em tìm hoài không thấy cái tiệm uốn tóc hồi xưa?
- Tiệm nào, tự dưng đến Rome lại muốn đi cắt tóc, uốn tóc, ngộ không?
Lilia ngạc nhiên.Tôi cười:
- Tiệm uốn tóc gần hồ Trevi, hồi xưa tài tử Audrey Hepburn đóng vai Công chúa Anne trong phim Roman Holiday đến cắt tóc đó!
Lilia phá ra cười, đôi mắt nâu buồn, trở nên tươi hơn:
- Chúa ơi, bộ phim từ năm 1953, hơn nửa thế kỷ rồi, bao nhiêu biến cố, làm gì còn cái tiệm đó mà tìm.
- Vì mê bộ phim đó mà vừa có Passport là em theo Lisa bay qua Rome ngay. Không tìm ra tiệm đó nhưng may mắn gặp chị.
Lilia nắm tay tôi, ân cần, bàn tay chị gầy, nhưng mềm dịu.
- Nghe Lisa kể về em hoài, chị cũng mong gặp em. Gặp đồng hương nói chuyện, tưởng như đang ở Việtnam.
Đồng hương! Cùng họ Nguyễn, nhưng phải nói với nhau bằng tiếng Anh. Lilia không biết tiếng Đức, tiếng Việt bập bẹ, chưa xóa mù chữ. Tiếng Ý của tôi mới có một từ: Grazia (cám ơn)!
Chúng tôi đứng trước cửa hàng mỹ phẩm của Lilia, nổi bật hai chữ Lá Xanh, viết đúng chữ Việt!
Hai bà khách ăn mặc sang trọng đang chờ trước cửa. Họ phải đi từ thành phố khác đến mua hàng, đang lo ngay ngáy bà chủ tiệm nghỉ bán đi tìm Mino. Hai bà hỏi thăm dồn dập về Mino, vừa được cảnh sát tìm ra, tôi tưởng đó là con của Lilia. Hóa ra Mino là chú chó cưng của chị Lilia, rất lăng nhăng, hay theo người yêu bụi đời dài ngày, khiến chị nhiều phen phải đóng cửa tiệm, đi tìm tở mở.
Không biết trên đời có cửa hàng nào nhỏ hơn Lá Xanh, bề ngang 2 mét, bề sâu có 1m50, chỉ kê được cái tủ kính bày hàng làm mẫu. Khách mua hàng nhiều, Lilia phải trèo lên cái thang dựng thẳng đứng để lấy hàng trên gác thượng. Vậy mà, theo Lisa kể, căn nhà ở ngoại ô thành Rome của Lilia chính là nhờ cửa hàng Lá Xanh, chỉ bán các loại mỹ phẩm đặc biệt chế tạo từ mật ong với hoa trái thiên nhiên.
Trên tường treo nhiều hình photo lớn, chụp phong cảnh khắp nơi ở VN, bãi biển Nha Trang, thác Bản Giốc, Sapa mù sương, đám nữ sinh áo dài trắng đi xe đạp, những nụ cười răng sún, đôi mắt tròn xoe đen hạt nhãn của trẻ em, gương mặt hom hem của các cụ già, những người gánh hàng rong ở Saigon, Hànội.
Khách đến mua hàng, không nghe bà chủ tiệm quảng cáo mỹ phẩm mà nghe toàn chuyện lạ về xứ Việtnam xa xôi, nhiều người bước vào Lá Xanh chỉ để hỏi thăm Tour du lịch Việtnam!
Lilia đã về thăm Việtnam nhiều lần trong vòng 5 năm gần đây, mang về đủ kiểu áo dài khăn đống, guốc dép, nón lá, nón quai thao, quà bánh, tặng không mấy bà khách hàng. Lần cuối, vì mang hàng quá nhiều, hải quan nghi ngờ chị đi buôn, định bắt nộp thuế.
Chị khoe với tôi cái áo gấm ngắn đang mặc, cổ cao với hàng nút cài bên hông, như áo dài cắt ngắn tà, của cô bạn VN may tặng. Cái áo được diện với cái rock đen dài, có vẻ đông tây hòa điệu, trông đỏm dáng hơi buồn cười. Tôi khen đẹp, Lilia vui ra mặt.
- Chị còn cái áo nữa màu hồng, đẹp lắm, để dành tặng em.
- Chị về VN du lịch chơi thôi hay tìm kiếm gì mà về nhiều lần vậy? Tôi thắc mắc.
- Đâu phải khi không chị trở về, tất nhiên có lý do.
Lilia mở cuốn album của gia đình. Người đàn ông Việtnam trong hình, gương mặt hơi tròn, mũi thấp, đôi mắt một mí giống hệt Lilia. Cô bé tóc vàng, em gái Lilia thì như khuôn đúc của người mẹ Pháp.
&
Ông họ Nguyễn, ở Marseille có hàng tá ông Nguyễn, nên người ta gọi ông là ông Bùi Châu, theo tên quê ông. Đó là ông tự nhận, chứ thật sự nguồn cội ông ở đâu, không ai biết. Không một ai, kể cả bà vợ Pháp, hiểu được vì sao ánh mắt ông buồn như vậy, vì sao không nghe ông nhắc tên một người bà con ruột thịt nào ở quê nhà. Tuyệt đối không có một hình ảnh về VN, sách báo tiếng Việt trong nhà. Ông cũng hạn chế giao du với đồng hương. Mấy lần đổi chỗ ở, vườn nhà ông luôn luôn có một, hai cây chuối. Hai chị em Lilia thắc mắc:
- Sao Papa chỉ trồng cây chuối?
- Vì cây này giống hệt cây chuối quê mình.
- Quê mình là tận đâu vậy Papa?
Ông lầm lì quay đi, như muốn chôn kín quá khứ. Chưa bao giờ Lilia nghe ông trả lời, nhưng chị mang máng hiểu, dù cố tình dứt bỏ nguồn gốc, tận thẳm sâu trong ông, vẫn nghĩ về “quê mình” nhiều lắm.
Tên chị Lilia là do ông đặt, vì “cái tên có âm hưởng như hoa lý ở quê mình”. Thật ra Lilia là hoa loa kèn, màu trắng tinh khiết. Cô em gái cao lớn, mắt xanh tóc vàng, xinh xắn, tươi vui như mẹ, trong khi Lilia theo gene của cha, thân hình mảnh dẻ, dáng dấp người châu Á, tóc nâu, và mắt nâu, mênh mang nỗi buồn xa xăm như cha.
Hai chị em sinh ra và lớn lên ở Pháp, như dân Tây chính gốc, không vướng mắc ý nghĩ về “quê mình”. Chưa từng thích thú tìm hiểu gì về quê hương cha, Lilia không biết nói, biết nghe một từ tiếng Việt. Học môn lịch sử ở trường thì biết Việtnam từng là thuộc địa của Pháp, là một nước nhỏ ở đâu đó, như Thái Lan, Nepal, Campuchia vậy thôi.
Cô em sau này lấy chồng Tây, bỏ họ Nguyễn, theo họ chồng như mọi người đàn bà Tây phương.
- Nhưng chị, 2 lần lập gia đình, lần đầu với người chồng Pháp, lần sau với người Ý, vẫn giữ họ Nguyễn của mình, không biết tại sao.
Lilia tâm sự. Khi nghe tin cha đau nặng, trở về Pháp gặp cha lần cuối, qua những lời trăn trối sau cùng, Lilia bắt đầu hiểu ra bóng tối trong đời ông, cùng lúc hiểu ra nguồn cội mình.
- Cha chị bỏ nhà ra đi lúc còn nhỏ. Ông từ bỏ gia đình, bỏ quê ở miền Bắc, vào tận Bình Dương tìm việc làm, sống cực khổ năm mới 15 tuổi. Sau này gặp mẹ chị là con chủ đồn điền, dù gia đình ngăn cản, vì yêu, mẹ chị nhất quyết lấy ông, hai người đưa nhau về Marseille sinh sống, vì ở đây khí hậu nắng ấm giống VN.
- Có lẽ cha chị muốn chị trở lại Viêtnam để tìm thân nhân chăng? Tôi hỏi.
- Không biết thực sự thâm tâm ông có ý đó không, nhưng trong mấy ngày cuối, ông chỉ kể riêng với chị. Lý do ông dứt áo ra đi là từ cái chết của bà mẹ. Nửa đêm, bà treo cổ tự tử ngay trong nhà vì chồng có vợ lẽ khác, gia đình chồng đối xử tàn tệ với bà. Ông không hiểu mẹ ông có lỗi gì mà bị cha phụ rẫy. Suốt đời ông bị ám ảnh với hình ảnh mẹ mình đung đưa trên sợi dây treo cổ, mặt tím bầm, mắt trợn trắng, trừng trừng nhìn người với sự căm thù. Một mình, không bà con, không tiền bạc, ông vào miền nam tìm sống, với lời thề độc: không bao giờ trở về quê, không nhìn mặt ai, kể cả người cha tội lỗi. Ông nuôi mối hận gia đình gai góc quá. Đôi khi nghĩ lại, chị vẫn tự hỏi, như vậy cha chị có cứng rắn quá không, có đúng với lương tâm không?
Tuy bệnh nặng, cha chị ra đi nhẹ nhàng, không đau đớn, như thoát được xiềng xích của quá khứ, nhưng bóng ma ấy lại phủ lên đời Lilia.
&
Làng Bùi Châu. Tên đó có thật không, hay vì muốn dấu sinh quán, người cha đã tự vẽ ra, từ tên Bùi Chu. Với mỗi cái tên đó, chị Lilia đến tận miền Bắc, đi qua nhiều nơi, tìm gặp, hỏi tin từ những người già cả, cha xứ. Không ai biết đến dòng họ Nguyễn x. nào đó, có gian nhà thờ lớn, có một phụ nữ treo cổ tự vẫn, có người con trai bỏ xứ ra đi. Chị trở vào nam, lặn lội từ Bình Dương đến Gò Vấp, Long Khánh, nơi nào nghe đồn có xóm người di cư gốc Bùi Chu. Nhưng Việtnam, đất nước một thời của chiến tranh, của tang thương, biết bao sinh ly tử biệt, bao nhiêu số phận tha phương. Chuyện gia đình Nguyễn x. nào đó chỉ là chuyện nhỏ, thường tình, nào ai biết, ai nhớ, mọi dấu tích kể như xóa sạch. Chính cha chị muốn cũng xóa đi những ngõ ngách của quá khứ kia mà, khốn nỗi, ông xóa kỹ quá, nên chỉ cái tên làng xã quê quán thôi, cũng không biết thực sự là đâu.
Hôm ấy trời mưa, Lilia lang thang trên đường phố Saigon, ngày mai chị phải trở về Ý. Gia đình, công việc, không thể bỏ tất cả để đi tìm mãi cái gốc tích mơ hồ. Đây là lần cuối trở lại đây, đành chịu đầu hàng mọi sự.
Bất ngờ một đám ma diễn ra trên đường, hàng dài người theo sau xe tang chở quan tài. Lần đầu Lilia nhìn thấy đám ma ở Việtnam, chị lặng lẽ theo sau, tò mò muốn biết phong tục tang ma.
Những người đi hàng đầu mặc áo sô trắng, đầu đội khăn sô phủ mặt. Giấy tiền, giấy vàng, giấy bạc tung ra hai bên đường. Người con trai cả đi đầu, tay cầm gậy, tay kia cầm ảnh cha, đi giật lùi trước xe tang. Khi quan tài đưa xuống huyệt sâu, nhiều người rủ ra vật vã, kêu khóc thương tiếc người chết. Chỉ một cô gái nhỏ đi sau cùng, không khóc.
Vẻ thầm lặng của cô gái lôi cuốn chị. Khi nghĩa trang chỉ còn mình Lilia và cô gái nhỏ, chị đến bên cạnh cô bé:
- Người chết là thế nào với em? Sao không thấy em khóc như người khác?
Cô gái gỡ tấm khăn sô ra, gương mặt xinh, như tạc với người trong tấm ảnh vừa khắc trên bia mộ:
- Chị nhìn em, thấy em giống ba em không? Ba em mất nhưng em có cảm giác như ông vẫn ở bên em, có lẽ vì thế em không thấy buồn nhiều như người khác.
Lilia lặng người, có điều gì sáng dần lên trong tâm trí chị:
- Thì ra mọi sự đơn giản vậy thôi, bao lâu nay mình cất công đi tìm cội rễ của mình, thật ra nó không ở đâu xa, không phải ở bên ngoài. Nó ở sẵn trong máu mình, trong tim mình. Nếu mình còn nghĩ về nó, thì nó vẫn ở trong mình. Vì cha mình chối bỏ nó, nên ông đánh mất nó. Thôi, từ nay không nhọc sức tìm kiếm nữa, mình đã tìm thấy nó rồi.
Chị nghĩ đến cha chị, nghĩ đến nỗi oán hận ông đeo mang cả đời, tự hỏi sao ông cứ trói buộc ông với quá khứ, khi đời người chỉ là thoáng qua như thế. Lần cuối Lilia rời Việtnam với tấm lòng thanh thản, không day dứt. Cũng là lúc chị buông bỏ gánh nặng buồn thương người cha xấu số.
Chúng tôi đi ra công trường Venezia, tấp nập khách du lịch, xe cộ qua lại. Lilia nói:
- Để chị thuê xe ngựa, mình đi một vòng xem đường phố thành Rome.
Tôi kêu lên:
- Chị chơi sang vậy, đi xe ngựa thời buổi này là quí tộc đấy.
Lilia cười:
- Chị muốn chiêu đãi em, khách quí mà.
Tưởng tượng mình đang ngồi ngất ngưởng trên xe ngựa, nệm bọc nhung, mái che có tua riềm vàng, hoa lá kết đầy chung quanh xe, giống ông hoàng bà chúa đời xưa, tôi hãi quá, dứt khoát từ chối.
Lilia đổi đề tài:
- Vậy chị sẽ đưa em đến Thiên Kim, nhà hàng VN duy nhất ở Rome cho em thưởng thức.
- Chịu liền, món này thì em dứt khoát nhận. Có điều em muốn biết thêm, thật sự chị về Viêtnam chỉ để tìm gốc tích thôi sao? Hình như còn điều gì khác nữa phải không?
Chị nhìn tôi, đôi mắt nâu tươi vui, không có ánh buồn như những tấm hình chị hồi trẻ.
- Ban đầu chị tưởng mình chỉ đi tìm nguồn gốc, dần dần chị hiểu ra, chị muốn gặp những người trong gia tộc cha chị, để biết tại sao, người ta lại đối xử với mẹ ông tàn nhẫn vậy, khiến ông mang hận thù dai dẳng như vậy? Dường như chị muốn trả mối hận cho cha. Nhưng bây giờ chị thấy điều đó thật vô nghĩa. Điều khác hơn là sau khi về VN mấy lần, nhìn thấy nhiều cảnh đời, nhiều phận người đau khổ hơn cha chị, chị đã thôi, không dằn vặt mình nữa. Chị thấy mình được giải thoát ra khỏi bóng ma ám ảnh từ quá khứ cha chị.
Minh Thùy